Lễ hội truyền thống Lễ hội truyền thống

1. Quán - Chùa Huyền Thiên

 

Cổng tam quan chùa Huyền Thiên, Hoàn Kiếm, Hà Nội


​       Địa Điểm: Chùa Huyền Thiên tọa lạc ở số 54 phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội.

       Ngày Lễ Chính: Vào ngày 3/3 và 9/9 âm lịch được tổ chức 5 năm 1 lần

         Quán Huyền Thiên, tên chữ là “Huyền Thiên cổ quán”, thường gọi là chùa Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên. Thuộc địa phận khu phố cổ Hà Nội, quán Huyền Thiên nằm giữa phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân. Thời Lê là đất thôn Huyền Thiên, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Phố này trước đây là nơi tập trung bán các loại khoai. Tên phố thời Pháp thuộc là “Rue des Tubercules” (phố Các Củ). Sau cách mạng tháng 8 gọi là phố Hàng Khoai. 
       Lịch Sử: Chùa được khởi dựng vào thời Lý. Kiến trúc được tu bổ, sửa chữa nhiều lần, định hình vào thời Nguyễn. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. 

 


            Tương truyền, Vào thời Tuỳ Khai Hoàng (617). Sau khi tu luyện đắc đạo tại núi Vũ Đương, Huyền Thiên Thượng Đế thường đi du ngoại khắp nơi để thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Ngài rất nhiều lần xuất hiện ở trần gian để tiễu trừ yêu ma cứu giúp dân lành. Ngài đến hồ Linh Động bên sông Nhĩ, hương Long Đỗ để diệt trừ yêu quái. Sau đó thần tiếp tục ngồi trên gò Kim Qui. Về sau nhân dân vùng này tưởng nhớ công ơn của Thần nên xây dựng Quán để phụng thờ…”


          Cũng theo sử sách đã ghi thì tục thờ Huyền Thiên Trấn Vũ đã xuất hiện ở nước ta từ rất sớm. Thần vốn là Thánh của Đạo giáo, lại là thần của người Việt nên nơi thờ đúng là Huyền Thiên quan. Sau này khi đạo Phật được mở rộng, dân trong thôn đưa Phật vào thờ chung trong quán, cũng quen gọi là chùa Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên từ đấy. 
        Kiến Trúc: Huyền Thiên cổ quán có bố cục kiểu “Nội công ngoại quốc”, các dấu tích kiến trúc, mỹ thuật hiện còn, đều mang dấu ấn của những lần tu sửa năm 1930, 1948. Mặt trước quán trông ra phố Hàng Khoai, tường sau áp sát phố Gầm Cầu, hai hồi quán là hai ngõ nhỏ. Nghi môn - gác chuông 2 tầng là một kiến trúc gạch nổi bật nhất trong toàn bộ các công trình của quán, mang dấu ấn đậm nết của lối kết cấu cổ truyền. Tiếp theo là phần nội công vãn còn nguyên vẹn với nhà bái đường 7 gian, có kiến trúc theo kiểu vọng lâu hai tầng, tám mái, đây cũng là nơi đặt pho tượng Thần Huyền Thiên.

         Bên cạnh ý nghĩa của một di sản kiến trúc tôn giáo, giá trị tiềm ẩn trong quán Huyền Thiên còn là các văn bia cổ, hàng loạt các pho tượng Phật, tượng Thánh, tượng mẫu và các pho tượng Lão giáo, cùng nhiều hiện vật phong phú khác. 
 

Lầu chuông


      Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa có nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật, như tượng các vị Bồ-tát Quan Âm, Thế Chí, Văn-thù, Phổ Hiền, tượng hai vị Hộ Pháp (mỗi tượng cao 3m) v.v... Chùa có điện thờ tượng đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Chùa có tấm bia đá dựng vào năm 1668. 
       Ngoài ra hàng năm, tại quán Huyền Thiên có hai ngày lễ lớn 3/3 và 9/9 âm lịch. Lễ rước tiến hành trong ba ngày kết hợp với nhiều sinh hoạt văn hoá đặc sắc. Tuy lễ hội mở định kỳ 5 năm một lần, nhưng qua hội lễ đã toát lên những nét đẹp truyền thống, qua đó những người dân ngày một thắt chặt thêm mối quan hệ xóm làng thân thuộc.

 


         Với tính chất của một ngôi quán thờ Thánh (theo quan niệm Lão giáo) lại vừa là một ngôi chùa thờ Phật, ngôi đền thờ Mẫu (theo tín ngưỡng dân gian), sự kết hợp hài hoà trong kiến trúc và tôn giáo đã làm Huyền Thiên cổ quán trở thành môt điểm văn hoá cảnh quan độc đáo trong quần thể các di tích nổi tiếng của khu phố cổ và thủ đô Hà Nội.

Ban công đồng


 

Nhà thờ tổ

         2. Đình Thanh Hà

        Đình Thanh Hà là ngôi đình của thôn Thanh Hà, toạ lạc tại số 77 Hàng Chiếu , phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, thờ đại vương họ Trần, tên Lựu. Ông sống dưới triều Trần, có công đánh dẹp giặc phương Bắc. Tương truyền, khi giặc phương Bắc tràn sang, nhà vua ra lệnh cho văn võ bá quan ai có thể cầm quân đánh giặc thì sẽ phong quan cao tước hậu. Các quan đều lo sợ nên không ai dám nhận. Lúc đó, Đại vương Trần Lựu xin đi. Vua lập tức phong cho tước Ứng Chỉ hầu, lại ban tước Quận công. Đại vương đem quân đến đóng tại trấn Vũ Ninh, tìm ra những kế sách kì diệu để đẩy lui quân giặc. Địa điểm đóng quân quân lệnh uy nghiêm, quân lính rất chỉnh tề. Quân giặc phương Bắc nghe uy danh chấn động nên thanh thế dần suy yếu. Đại vương bày binh bố trận, chống cự với quân giặc khiến chúng thua chạy tan tác. Sau khi chiến thắng, Đại vương cắt binh trấn thủ các đồn sở và khải hoàn trở về. Khi về đến thôn Thanh Hà, phường Đồng Xuân, kinh thành Thăng Long, Đại vương truyền khao thưởng quân sĩ và các bậc phụ lão quanh vùng. Ngay lúc đó, mây mù ảm đạm, sấm chớp dữ dội, Đại vương lập tức hoá. Nhà vua hay tin vô cùng thương xót nên truyền dựng đình để thờ. Dân làng suy tôn Đại vương lên làm thành hoàng làng. Đại vương cũng được vua sắc phong là Thượng đẳng thần, Thiên Đô đại thành hoàng, tức Thanh Hà linh ứng Đại vương.

Nói về công lao của thành hoàng được thờ ở đình Thanh Hà, dân gian có thơ truyền lại như sau:

Thần linh vốn bẩm sinh do hoá công tạo ra

Giúp đỡ triều Trần trong lúc rất nguy nan

Tuấn mã rong ruổi tiếng tăm lừng lẫy

Ngọn giáo vàng chỉ thắng thế ào ạt

Người phương Bắc khiếp sợ mất hết tham vọng xâm lăng

Bờ cõi nước Nam đặt vững như bàn thạch

Anh linh từ vạn cổ được ghi trong sử sách

Tiếng oai hùng vang khắp giang sơn.

        Tương truyền đình xây dựng từ thời Trần, trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, nay đình còn giữ lại được nhiều mảng chạm khắc, cửa võng và đồ thờ tự bằng gỗ sơn son thếp vàng, mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn. Đình được dựng ngay sát chân La Thành của kinh thành Thăng Long xưa. Ngày nay, di tích chỉ còn Nghi môn, vào trong là một sân nhỏ cùng ba nếp nhà được xếp theo hình chữ Công. Đình quay hướng Đông, mặt quay ra đường phố cổ (phố Ngõ Gạch).

         Đình Thanh Hà là một công trình kiến trúc theo kiểu đình làng truyền thống của vùng quê Bắc Bộ Việt Nam. Đình quay mặt về hướng Đông, nhìn ra phố cổ, kiến trúc theo kiểu chữ Công. Kiến trúc đình bao gồm tam quan, nhà tiền bái, phương đình và hậu cung. Cổng tam quan được xây sát hè phố, có ba cửa ra vào rộng hẹp khác nhau. Qua sân hẹp là đến tiền bái. Toà tiền bái được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, gồm ba gian. Bộ vì kèo kết cấu kiểu chồng rường, con rường thứ hai được thay bằng hai con rường nhỏ đỡ đầu rường trên, theo kiểu giá chiêng trốn cột (giá chiêng không cột chống). Cửa bức bàn bao kín cả mặt ba gian. Hai gian bên, trước kia có sàn cao hơn mặt nền 0,5m, nay đã được đổ đất cao, lát gạch. Gian giữa thấp. Ba gian được ngăn cách bằng chắn song hình con tiện. Quá giang được chạm trổ hình rồng, hoa cúc, mây xoắn, tia chớp, lá cách điệu. Nối liền với toà tiền bái và hậu cung là toà thiêu hương, được dựng theo kiểu phương đình bốn mái. Phương đình được dựng bằng bốn cột cái, hai bộ vì kèo, bốn mái, trên các con rường có chạm nổi hoa lá, dưới rường lắp ván kín, chạm nổi hình phượng vũ hàm thư. Lồng giữa các xà đai hai bên là bốn con lân lớn chạm theo kiểu nửa hình tròn. Toà hậu cung cũng làm theo kiểu bốn hàng chân. Bên trong hậu cung đặt khám thờ, có cửa võng được chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng.

     Bộ di vật của đình Thanh Hà nhiều về số lượng, đa dạng về chất liệu. Đặc biệt, đình hiện có 50 viên gạch gốm sứ mang nét trang trí thời Mạc là những hiện vật quý hiếm có giá trị về mỹ thuật, lịch sử. Đình còn có 9 tấm bia đá có niên đại thời Nguyễn, trong đó có tấm bia nêu rõ sự tích cùng lịch sử xây dựng ngôi đình, trong đó, quan trọng hơn cả là bia Thanh Hà ngọc phả bi ký khắc lại một bia thời Lê và bia Trùng tu Thanh Hà đình bi ký ghi lại sự tích và lịch sử xây dựng.

       Hàng năm, đình có tổ chức lễ hội vào ngày 04/04 ÂL (ngày sinh) và 15/09 ÂL (ngày hoá).

      Đình đã được nhà nước xếp hạng di tích Nghệ thuật Kiến trúc ngày 21/01/1989.

 

Bình chọn Bình chọn

Theo bạn, giao diện Cổng thông tin điện tử phường đã đẹp hay chưa?